Tố Hữu nó được coi là lá cờ đầu của quỹ thơ ca cách mạng Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lời ấy, Máu và hoa, Ra trận, Việt Bắc…
A Hữu (1906 – 2002)

Giới thiệu sơ lược về nhà thơ Tố Hữu
Trong cuộc đời Tố Hữu
Tố Hữu sinh năm 1920 tại Thừa Thiên Huế, mất năm 2002 tại Hà Nội. Tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước (Thủ Thiện – Huế là vùng đất của thơ ca trữ tình, gắn với nhiều nét văn hóa dân gian).

Ngay từ nhỏ, đồng chí đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng, luôn hăng say làm việc, luôn đấu tranh kiên quyết dù đang ở trong nhà tù thực dân. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông giữ nhiều chức vụ trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
A Hữu đã vinh dự nhận được nhiều danh hiệu, giải thưởng khác nhau: Giải nhất Văn học của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (1954-1955), Giải thưởng Văn học ASEAN (1996), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (1996).
Sự nghiệp | Đường Cách Mạng, Đường Thơ Tố Hữu
Nói chặng đường hoạt động cách mạng của Tố Hữu gắn liền với chặng đường thơ ca của ông là rất xác đáng. Thơ ông trải dài qua các chặng đường lịch sử của dân tộc, kiên định với lý tưởng cách mạng của Đảng và Bác Hồ được nung nấu trong từng thời kỳ kháng chiến.
A Hữu xuất thân trong một gia đình nhà Nho, từ năm 6 tuổi đã biết làm thơ. Ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng từ giữa những năm 1930, vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938. Trong phong trào dân chủ 1936-1939, Tố Hữu đã lãnh đạo đoàn thanh niên dân chủ ở Huế. Thơ Tố Hữu bắt đầu đăng báo từ những năm 1937-1938.
Năm 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam; Năm 1942, ông vượt ngục tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Huế. Sau cách mạng, ông trở thành nhà lãnh đạo tư tưởng và nghệ thuật của Đảng và Nhà nước, đồng thời trở thành nhà thơ lớn của dân tộc.
A Hữu đã để lại cho đời nhiều bài thơ có giá trị. Ở Tố Hữu có sự gắn bó chặt chẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ ca. Thơ ông chan chứa tình yêu nước, yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cách mạng.
Trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông, nổi bật có: tập thơ Tử Thất (1946), tập thơ Việt Bắc (1954), tập thơ Gió Lòng (1961), tập thơ Ra trận (1972), tập tùy bút Xây dựng. một nhà văn hóa lớn, xứng đáng với dân tộc ta (1973), tập thơ Máu và hoa (1977), tiểu luận Đời sống cách mạng và văn học nghệ thuật (1981), tập thơ Một giai điệu của đàn (1992), hồi ký Nhớ lại một thời. 2000 )…
Sau này, từ viết về hiện thực cuộc sống, TH chuyển sang viết về cảm xúc của chính mình.
Trong phong cách thơ Tố Hữu
– Nó mang nhiều dấu vết trữ tình chính trị.
– Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
– Giọng ngọt ngào tình cảm.
– Đậm đà tính dân tộc.
Tố Hữu chủ yếu sử dụng những từ ngữ quen thuộc, phát huy cao độ nhạc tính phong phú của tiếng Việt, đồng thời cũng rất thành công trong việc sử dụng các thể thơ truyền thống.
Tác phẩm “Lời ấy”
Tập thơ “Từ ấy” (1937 – 1946) là chặng đường thơ đầu tiên đi vào cuộc đời Tố Hữu, gắn liền với phong trào cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. gồm ba phần: Máu và lửa, Xiềng xích và Giải thoát.
Năm 1938, Tố Hữu được kết nạp Đảng Cộng sản. Đó là bước ngoặt lớn trong quá trình vận động cách mạng của Tố Hữu. Kỉ niệm đáng nhớ ấy với những cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc, Tố Hữu đã viết bài thơ Từ đó. Bài thơ nằm trong phần Máu Lửa Từ Đó (tập thơ gồm ba phần Máu, Xiềng Xích và Giải Phóng).
Đây là tiếng ca tươi vui, trong trẻo, hân hoan, nồng nàn của một tâm hồn trẻ trung khao khát lẽ sống đã tìm thấy ánh sáng lý tưởng, đồng thời tập thơ cũng giàu chất lãng mạn, trong sáng và cảm xúc tuổi trẻ. một cái tôi trữ tình và cách mạng mới.
Bài thơ “Lời ấy” thuộc phần 1. Máu và lửa – phần hay nhất, ấn tượng nhất của tập thơ cùng tên với tập thơ; được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7 năm 1938, lúc đó tác giả đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Lời này là một bản tuyên ngôn, một bài ca bất hủ về cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ vừa là khát vọng của tác giả, vừa là tiếng nói của người thanh niên yêu nước, niềm vui, niềm say mê mãnh liệt và nhận thức mới về lý tưởng của Đảng, của cách mạng.