Với một phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài năng, không ngừng cố gắng khai thác kho cảm xúc và liên tưởng phong phú và hỗn độn để tìm ra những từ ngữ phù hợp và xúc động nhất. nguyễn tuân Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có Sông Đà, một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả có được trong chuyến ngao du vùng Tây Bắc Tổ quốc. Ông đã tìm ra chất vàng của tự nhiên và chất vàng thứ mười đã được thử lửa thể hiện trong bài văn “Người lái đò Sông Đà” nhưng con sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thi vị đã được tác giả miêu tả tài tình.
Sông Đà quê gốc ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, gần nửa đường mới xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 thác nước và tổng chiều dài 983 km. Qua nhãn quan của Nguyễn Tuân, sông Đà trở nên trù phú, phức tạp như một cố nhân “Bệnh tật nhiều lắm, có lúc nhẹ, có lúc ủ rũ, gắt gỏng”.

Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm lẻ bảy thác, trăm lẻ ba ghềnh” (Ca dao) và tính bạo lực này còn được thể hiện qua dòng chảy phóng túng của nó: “Ta đông sông – Đà Giang đầu độc Bắc Lưu” một dòng chảy riêng, không phù hợp với lẽ thường. Sự nguy hiểm của dòng sông không chỉ thể hiện qua những thác nước mà còn “Bờ sông đã được lát đá, tường đã được xây dựng và mặt sông chỉ còn đó vào buổi trưa khi mặt trời mọc. Có những vách đá bao lấy lòng sông Đà như một cái họng. Đứng ở băng ghế bên này, nhẹ nhàng ném hòn đá sang bên kia bức tường. Có lần một con hươu và một con hổ nhảy từ bờ biển này sang bờ biển khác. Ngồi trên phà qua quãng đường này, đang là mùa hè mà lành lạnh, tôi có cảm giác như đang đứng trong ngõ nhìn vào ô cửa sổ tầng lầu vừa tắt đèn”.. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, nơi chật hẹp ấy mà tốc độ dòng nước lại trở nên vô cùng nhanh. Thử tưởng tượng con thuyền nào lọt vào cái khe này thì tiến không được, lùi không được, chỉ chờ sóng và đá đập vỡ thân tàu.
Làm sao “Ghềnh Hát Loong xa muôn dặm, đá nối đá, sóng vỗ, quanh năm gió thổi, như đòi nợ người lái đò Sông Đà nào theo năm tháng”.. Cũng với cách cấu tứ ấy, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của dòng sông hung dữ, sẵn sàng đoạt mạng bất cứ tay lái liều lĩnh nào.
Những thủy vực ở vùng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La còn kinh hoàng hơn. “Nước ở đây thở nghe như ngạt thở. Trước mặt con bú quay đáy, cũng quay cánh quạ. Không tàu nào dám lại gần những vũng nước này, từng con thuyền qua nhanh chèo lái qua sông, giống như một chiếc ô tô vặn ga tăng tốc để nhảy một quãng dài mượn một mái chèo vắt vẻo lướt nhanh qua những giếng sâu thăm thẳm những giếng đầy nước như đổ dầu sôi vào. Có những con thuyền bị hút vào trong hút, thuyền cắm ngược cây chuối rồi lặn mất tăm, chìm xuống lòng đất đến mươi phút sau xác tan tác dưới hạ lưu sông”.. Thật là những cái bẫy khủng khiếp và chết người!

Tiếng thác nghe càng hãi hùng! “Giống như phàn nàn, sau đó là cầu xin, sau đó là khiêu khích, châm biếm và chế giễu. Tiếng thác ầm ầm như tiếng cả ngàn con trâu đang ngái ngủ lao vào giữa rừng trúc rừng trúc bừng bừng lửa cháy rừng rực, rừng lửa rống đàn trâu đang bùng cháy”.. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài hoa và những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã thể hiện cảnh thác nước hùng vĩ và vô cùng hiểm trở. Lần đầu tiên trong thơ văn có người dùng lửa để miêu tả nước, hai yếu tố có sức công phá lớn luôn mâu thuẫn với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại có lửa thì không có nước. Nhưng Nguyễn Tuân đã làm được. Anh ấy là một nghệ sĩ bậc thầy!
Nó phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm “Bọt sóng tung trắng một chân trời. Những tảng đá ở đây đã bị chôn vùi dưới lòng sông hàng ngàn năm. Mỗi bức tường đá trông chênh vênh, mỗi hòn đá nhăn nheo và méo mó hơn cả mặt nước ở đây.”. Sông Đà đã giao việc cho từng đảo, để kết thành ba mầm mống nguy hiểm:
Virus thứ nhất: Sông Đà có 5 cửa trận, 4 cửa tử, 1 cửa sinh, 1 cửa sinh nằm ở tả ngạn sông. Giữa ruộng có hai cửa đá trông như lỗ thông, thực ra có tác dụng thu hút con thuyền ra giữa ruộng. Trong con vi trùng đầu tiên này, sóng nước đóng vai trò chính trong việc phá hủy con tàu. Ngay khi bước vào chiến trường, họ đã tấn công con tàu hàng loạt: “Con nước gầm gào vây quanh, ập vào làm gãy lưỡi súng trên cánh tay. Sóng nước như người lính liều mạng sát nách, đá bên trái, thọc đầu gối vào bụng, bên sườn. thuyền. Có khi họ cho cả thuyền vào. Nước dính vào thuyền như đô vật túm lấy eo người lái đò, hỏi lộn ngược giữa giông bão. Sóng đánh đòn chí tử, Và tất cả bất lực dòng nước ép vào háng người chèo thuyền.”
Vượt qua được vòng vây thứ nhất, người chèo thuyền lại phải đối mặt với vòng vây thứ hai: “Thêm cửa tử để lừa thuyền vào, cửa sinh bố trí trôi về hữu ngạn. Dòng thác hổ mang, hổ dữ hiến tế dữ dội trên sông đá đập qua đập lại vào thuyền”.. Trong cuộc chiến tay đôi này, họ quyết định chiến đấu đến chết với người chèo thuyền. Khi con tàu đi qua, con sóng đã chết “vẫn còn khiêu khích, mặc dù anh chàng chiến đấu ở lối vào có khuôn mặt nhợt nhạt vì thất vọng.”. Họ là những rocker nước nguy hiểm!

Trên hạt giống thứ ba: ít cổng hơn, bên phải và bên trái đều là dòng chết. Dòng sự sống trong giai đoạn thứ ba này nằm ngay giữa những người bảo vệ thác nước. Ở đây các boong-ke chìm và pháo đài đá nổi dưới chân thác đã phải nghiền nát con tàu. Nó làm tôi nhớ đến một trận bóng đá khốc liệt. Con tàu như một người chơi chính xác thẳng, qua cửa giữa, bốc lên, bay lên, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong nữa, và như mũi tên tre thoăn thoắt xuyên qua hơi nước, vừa xuyên vừa hướng và lướt tự động., tiến về đích và cuối cùng là hết thác. Trận bóng đã phần thắng nghiêng về người lái đò tài hoa với “tay lái hoa mỹ”.
Như vậy, ta thấy Sông Đà như một con thủy quái hung hãn, bạo ngược, biết bày binh bố trận, thủy chiến để tiêu diệt tàu thuyền trong vùng biển của mình, một thiên nhiên của Tây Bắc với “Ngoại hình và vị trí là kẻ thù số một”. Con sông “Hàng năm và mãi mãi, tôi làm trò hề cho người dân Tây Bắc và giận dữ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng trách sông Đà gắn với câu ca dao huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi sông còn dài – Năm năm thù hận vĩnh hằng”.
Sông Đà không chỉ có nhiều thác, nhiều ghềnh nguy hiểm cho người lái đò mà còn in đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Dòng sông Đà chảy dài như áng tóc trữ tình, chân tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, tháng hai hoa nở, sương núi Mèo đốt nương xuân”.. Một cách so sánh tài hoa, phong cách. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa, trong đó mùa xuân và mùa thu là đẹp nhất: “Mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, nhưng nước Sông Đà không xanh như màu hến sông Gâm Sông Lô, mùa thu nước sông Đà đỏ như da mặt người người bầm tím vì rượu, và cơn giận dữ đỏ bừng của một người bất mãn mỗi lần nổi giận.”
Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba “Yên hoa tam nguyệt khai Dương Châu”, làm cho mọi người đi rừng trong một thời gian dài “Vui như nhìn nắng tan sau cơn mưa rào, vui như nối lại giấc mộng đã đứt.”
Sông Đà cũng có những quãng, những không gian và những cảnh nên thơ: “Cảnh sông nước ở đây thật êm đềm, hình như từ thời Lý, Trần, Lê, dòng sông này đã êm đềm đến thế.“. Có những cảnh hoang sơ và hoang dã đến lạ lùng: “Bờ sông hoang sơ như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa.. Cảnh sông Đà vắng lặng “Những bãi ngô đang nhú lá non đầu mùa, những ngọn cỏ trên đồi đang ra đọt non. Đàn nai cúi đầu ăn cỏ đẫm sương.”. Trong lúc thưởng thức một cảnh thiên nhiên thơ mộng và tươi đẹp như vậy, nhà văn bỗng cảm thấy“Muốn hết hồn vì tiếng còi tàu đầu tiên của tuyến đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên đẹp nhưng hoang dã, “tinh khiết không bóng tối”, “Ruộng ngô mầm lá ngô non đầu mùa” không ai để ý đến, nhưng dường như từ thời Lý, Trần, Lê, dòng sông này mới êm đềm như xưa. Thật là nhàm chán! Từ quá khứ nhà văn trở về hiện tại và hướng tới một tương lai tươi đẹp. Con người sẽ khai phá vùng đất nơi đây, đường xá sẽ mở ra, thị trấn và làng mạc sẽ mọc lên, khắp nơi sẽ tràn ngập tiếng cười của mọi người. Rõ ràng cảnh vật không có người ở vẫn hoang vu buồn tẻ biết bao! Nằm mơ màng trong cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có một mối quan hệ kỳ lạ với loài vật: “Con hươu ngây thơ ngẩng đầu nhung lên khỏi đám cỏ mù sương nhìn tôi trôi theo thuyền Con nai vểnh tai lên nhìn tôi không chớp mắt mà hỏi tôi bằng giọng thú ngoan: Hỡi khách sông Đà , bạn vừa nghe thấy một tiếng còi sương?.
Ở đây hình như con vật đang hỏi người hay là người đang say trong giấc mơ đang tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thật thơ mộng, có những khoảng lặng huyền ảo khiến lòng người như lạc vào cõi tiên, rồi tiếng nước sông. “Đàn cá vây xanh nhảy lên mặt sông, bụng trắng bạc rơi xuống chạy trốn đàn hươu đã biến mất”. đánh thức kẻ mộng mơ Nguyễn Tuân đã sử dụng động tác để miêu tả cái tĩnh lặng tuyệt vời một cách rất tài tình. Trở về với thực tại, lênh đênh trên mặt nước trong xanh đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có những cảm nhận về sông Đà giống như Tản Đà trước đây: “Sông quê sôi nước: bao cảnh, bao tình” thuộc về “một người tình không quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, nước chảy chầm chậm “Làm sao nhớ những tảng đá mà dòng thác bỏ lại xa trên thượng nguồn, làm sao nghe tiếng nói êm dịu của người xuôi dòng”. Dòng sông trở nên mềm mại và thơ mộng, điều này “Xuất phát những chiếc thuyền mà chúng tôi lái, nó khác với những chiếc thuyền nối đuôi nhau cổ điển.”
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân đã tái hiện một bức tranh phong cảnh Tây Bắc hùng vĩ nhưng cũng không kém phần trữ tình, khiến ta càng thêm tự hào về sông núi của Tổ quốc kỳ vĩ, tráng lệ. Sông Đà là món quà vô giá của tạo hóa, là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của nhà văn chính luận Nguyễn Tuân.