Qua khổ thơ thứ hai của bài “Bài ca mùa thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh, người đọc cảm nhận được sự thay đổi của đất trời trước thời khắc giao mùa. Ở khổ thơ thứ hai, sau giây phút ngỡ ngàng, nhà thơ chợt bừng tỉnh: mùa thu đã về! Dập tắt những hoài nghi, Hữu Thỉnh không còn nghĩ ngợi điều gì khác ngoài những cảm xúc đang dâng trào:
Dòng sông thật thoải mái
Những con chim bắt đầu chạy
Có những đám mây mùa hè
Nhấn nửa chừng để thả
Thiên nhiên mùa thu được nhà thơ khám phá bằng những hình ảnh quen thuộc tạo nên hình ảnh mùa thu đẹp đẽ, trong sáng. Cả hai câu thơ đều có nhịp gấp gáp, gấp gáp như hơi thở của mùa thu đã bắt đầu hòa nhịp. Dòng sông mùa này không có mưa to gió lớn nên con nước “dễ dãi”. Dòng sông quê hương mềm mại, êm ả, hiền hòa chảy qua gợi lên vẻ đẹp êm dịu của hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh những chú chim chiều tối bắt đầu chạy về phương Nam tránh rét. Dòng sông mùa thu đầy nước, nhưng dường như không chịu chảy, cố đợi ai. Dòng sông có đợi nước mùa thu? Một hình ảnh nên thơ và lãng mạn. Nhưng lũ chim không thể chịu đựng được nữa, chúng phải chạy về phía nam để tránh rét. Mọi thứ chuyển động, thay đổi. Các từ láy “thoải mái”, “vội vã” như mở ra những nét tương phản thú vị trong khung cảnh thiên nhiên cao rộng. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả đặc biệt thể hiện ở việc miêu tả hình ảnh “những đám mây mùa hạ”. Tác giả nhân cách hóa đám mây bằng từ “vắt”: hai câu thơ hùng tráng. Từ “vắt” diễn tả đám mây như một dải lụa mềm trên bầu trời, một nửa là mùa hạ, nửa còn lại nghiêng về thu. Câu thơ còn gợi ra sự trôi đi uyển chuyển, nhẹ nhàng của thời gian. Không biết mùa thu này nhớ mùa hè hay nhà thơ nhớ mùa hè mà vẫn nhớ mùa thu? Điều này khiến Hữu Thỉnh thực sự khác biệt với các nhà thơ khác. Cũng viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến viết: “Mây bồng bềnh trời xanh” nghĩa là mùa thu của Nguyễn Khuyến đã thực sự là mùa thu, không còn kẹt trong mùa hè bỏng rát. Phải yêu mùa thu lắm, Hữu Thỉnh mới vẽ được bức tranh mùa thu ấm áp như vậy với hơi ấm của đất trời, ấm áp của hơi ấm quê nhà!